Lần đầu tiên tại Việt Nam, các bài học kinh nghiệm và thực tiễn ứng dụng công nghệ mới chỉnh sửa gen trong chọn, tạo, cải tiến giống cây trồng trên thế giới và tiềm năng ứng dụng tại Việt Nam được các nhà khoa học bàn luận tại hội thảo quốc tế “Chỉnh sửa gen: Bối cảnh toàn cầu và tiềm năng cho Việt Nam” do Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) và Hội đồng Ngũ cốc Hoa Kỳ (USGC) tổ chức ngày 17/7.
Những bước tiến của chỉnh sửa gen trên quy mô toàn cầu
Theo các nhà khoa học, các chính sách, quy định về chỉnh sửa gen có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và khai thác tối đa tiềm năng của công nghệ trong việc cải tiến giống cây trồng mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân, giúp nâng cao giá trị thương mại của sản phẩm nông nghiệp.
TS. Phạm Văn Toản, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam khẳng định, việc cải tiến giống cây trồng mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân.
Chia sẻ kinh nghiệm về phát triển các kỹ thuật nhân giống mới để cải tiến cây trồng ở Nhật Bản, GS. TS. Hiroshi Ezura, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu đổi mới cây trồng Tsukuba, Đại học Tsukuba đã đưa ra những kinh nghiệm thực tiễn về giống cà chua của Nhật Bản được chọn, tạo bằng công nghệ chỉnh sửa gen đã có sự cải thiện về chất lượng dinh dưỡng và hàm lượng GABA cao.
GABA (axit Gamma Amino Butyric) là một loại axit amin tự nhiên hoạt động như một chất dẫn truyền thần kinh, giúp tạo cảm giác thư thái, làm dịu sự căng thẳng và sợ hãi, đồng thời cải thiện giấc ngủ.
GABA đã trở thành sản phẩm thực phẩm chức năng phổ biến trong những năm gần đây. Tuy nhiên, GABA không có sẵn từ nhiều nguồn thực phẩm tự nhiên. Chính vì vậy, việc tạo ra giống cà chua mới có hàm lượng GABA tăng cao nhờ kỹ thuật chỉnh sửa gen là một thành tựu lớn, và giống cà chua này sắp tới sẽ được phát triển đại trà tại Nhật Bản.
Công nghệ chỉnh sửa gen (Gen Editing) đã được nghiên cứu, phát triển trong hơn một thập kỷ qua cho phép các nhà khoa học “chỉnh sửa” bộ gen của cây trồng để tạo ra các tính trạng mong muốn và đã chứng minh có khả năng cải tiến giống cây trồng mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân, giúp nâng cao giá trị thương mại và cải tiến các tính trạng tiêu dùng.
Lý giải sự khác nhau của công nghệ mới là chỉnh sửa gen so với công nghệ biến đổi gen (GMO), Phó Chủ tịch Hiệp hội thương mại giống cây trồng Việt Nam, Trần Xuân Định cho biết: Chỉnh sửa gen dựa trên nền tảng của công nghệ tế bào, sử dụng các gen mục tiêu, ADN thông tin để đưa gen vào để chỉnh sửa những đoạn gen bất lợi, không phù hợp với mục tiêu, các gen này trong cùng một loài chứ không sử dụng gen khác loài.
Trong khi đó, GMO là sinh vật biến đổi gen cải thiện trên cơ sở là đưa gen khác loài vào đối tượng mà mình mong muốn, ví dụ như là cải tạo một tính trạng nào đấy thì ta phải lợi dụng 1 loại vi sinh vật để đưa một gen như gen kháng thuốc trừ cỏ, gen kháng sâu đục thân… vào cây ngô thông qua một loại sinh vật khác loài. Mục tiêu chung vẫn là cải tạo chuỗi ADN trong sinh vật cây trồng. Sự khác nhau là biến rổi gen GMO thì cần đến sinh vật khác loài còn chỉnh sửa gen không dùng đến phương tiện đó.
“Đây là công nghệ mới phát triển. Các nhà khoa học cần có đánh giá sâu hơn về các tác động tới an toàn sinh học, an toàn về dinh dưỡng để có thể có báo cáo toàn diện về chỉnh sửa gen, phục vụ được công tác quản lý” – ông Trần Xuân Định đưa ra ý kiến.
GS.TS Bùi Chí Bửu, nguyên Phó giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) chia sẻ: “Công nghệ chỉnh sửa gen có hai điểm khác với công nghệ biến đổi gen lớn nhất hiện nay. Một là, thay vì dùng gen ngoại lai chuyển vào nó dùng gen của chính bản thân nó đưa vào. Hai là, nó có thể một lúc chỉnh sửa rất nhiều gen, phân tử nó tìm kiếm vùng đích, mục tiêu đa dạng. Nó an toàn hơn rất nhiều, nó lấy của nó sửa lại của nó đưa vào cho chính nó. Đây là kết quả của rất nhiều công nghệ nghiên cứu. Công nghệ đầu tiên là công nghệ của kỷ nghiên NGS – giải trình tự thế hệ mới.
Tiềm năng của chỉnh sửa gen tại Việt Nam
Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 188/2005/QĐ-TOT về Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW và giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện “Chương trình trọng điểm về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020”.
Mục tiêu của chương trình là phát triển công nghệ sinh học hiện đại, tập trung vào công nghệ gen để đưa một số giống cây trồng mới vào sản xuất. Đây được xem là tiền đề cho việc thực hiện một số dự án nghiên cứu chỉnh sửa gen, bao gồm cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Nhiều bài học kinh nghiệm và thực tiễn ứng dụng công nghệ mới chỉnh sửa gen trong chọn, tạo, cải tiến giống cây trồng trên thế giới và tiềm năng ứng dụng tại Việt Nam được các nhà khoa học bàn luận tại hội thảo.
Tại Việt Nam năm 2017, dự án ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen đầu tiên đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cấp kinh phí thực hiện với mục tiêu sử dụng công nghệ chỉnh sửa gen để phát triển giống lúa Bắc thơm 7 kháng bệnh bạc lá và giống lúa OM5451 có mùi thơm.
Cùng với đó, đã có 2 nhóm nghiên cứu độc lập của Viện Di truyền Nông nghiệp đã lần đầu tiên sử dụng công nghệ chỉnh sửa gen như một công cụ để xác định và nghiên cứu đặc điểm của một số gen mới liên quan đến sự hình thành cấu trúc bông lúa và phát triển bộ rễ ở lúa.
“Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là hiện Việt Nam chưa có luật, văn kiện luật pháp bảo đảm trong khi triển vọng đối với của chỉnh sửa gen rất có tiềm năng. Các kết quả đạt được do chỉnh sửa gen mang lại so với biến đổi gen tốt hơn rất nhiều. Sàng lọc di truyền làm rất tốt, do vậy rủi ro cho sức khỏe của người dân cũng được giảm thiểu. Trong khi nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Thái Lan đã đưa vào luật, và áp dụng trong sàng lọc di truyền”, GS.TS Bùi Chí Bửu đưa ra ý kiến.
Theo các nhà khoa học, các chính sách, quy định về chỉnh sửa gen có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và khai thác tối đa tiềm năng của công nghệ.
Cụ thể, TS. Phạm Văn Toản, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) cho biết: Hoa Kỳ và một số quốc gia khác xác định giống cây trồng mới tạo ra từ công nghệ chỉnh sửa gen không khác biệt về mặt di truyền với giống cây trồng tạo ra bằng các kỹ thuật, công nghệ truyền thống nên không cần thiết phải ban hành văn bản quản lý mới về công nghệ chỉnh sửa gen và sản phẩm tạo ra từ công nghệ chỉnh sửa gen. Các nước Australia, Ấn Độ dự kiến đưa ra qui định quản lý sản phẩm tạo ra từ công nghệ chỉnh sửa gen chứa gen ngoại lai tương tự sản phẩm biến đổi gen, các sản phẩm khác không chứa gen ngoại lai được quản lý tương tự sản phẩm tạo ra từ công nghệ chọn tạo giống cây trồng truyền thống.
Trong khi đó Liên minh châu Âu (EU) coi giống cây trồng tạo ra bằng công nghệ chỉnh sửa gen là cây trồng biến đổi gen và đang giao Cục An toàn thực phẩm châu Âu (EFSA) đánh giá mức độ tương thích của các phương pháp đánh giá rủi ro hiện có với những sản phẩm tạo ra bằng kỹ thuật chỉnh sửa gen. Nhiều quốc gia khác đang trong quá trình xây dựng chính sách và hướng dẫn quản lý cây trồng chỉnh sửa gen và sản phẩm tạo ra.
Trong báo cáo về Công nghệ chỉnh sửa gen của nhóm nghiên cứu của Viện Di truyền nông nghiệp, TS. Nguyễn Duy Phương cho biết: Bối cảnh toàn cầu và tiềm năng cho Việt Nam, các nhà khoa học đề xuất chính phủ Việt Nam nên tiến hành rà soát, đánh giá lại toàn bộ các định nghĩa và tiêu chuẩn trong khung quy định pháp lý hiện hành để việc ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen không bị kiểm soát một cách bất hợp lý, tạo điều kiện để công nghệ này được phát triển tại Việt Nam.
Trong tương lai gần, cùng với việc Việt Nam thực hiện Công ước đa dạng sinh học mà Việt Nam là thành viên, Luật đa dạng sinh học và các luật liên quan, rất cần việc xây dựng những quy định quản lý cho công nghệ mới và các sản phẩm từ chỉnh sửa gen. Việt Nam cũng cần học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, hợp tác, trao đổi và xây dựng giải pháp quản lý thích hợp để khai thác ứng dụng có hiệu quả công nghệ chỉnh sửa gen trong điều kiện cụ thể của Việt Nam phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững.
L. Sơn/Báo Tin tức