Thời nào cũng có những bộ óc lỗi lạc. Thế ai sở hữu bộ óc đầu tiên khởi đầu cho những thứ vĩ đại?
Trong quãng thời gian 2.500 năm qua, không ít những bộ óc lỗi lạc đã đẩy khoa học tới những giới hạn mới. Theo ước tính của UNESCO, nội trong năm 2013, giới khoa học sở hữu khoảng 8 triệu “con ong chăm chỉ” liên tục vun đắp cho tổ ấm. Họ là thế hệ mới của nòi giống những kẻ kiếm tìm mật ngọt tri thức không biết mệt mỏi, nhưng khi họ muốn thờ tổ ngành khoa học, họ sẽ phải gọi tên ai?
Ai là nhà khoa học đầu tiên của nhân loại?
Để mỗi người trong chúng ta có thể tự trả lời câu hỏi trên, bạn phải tự vấn bản thân: mình định nghĩa “nhà khoa học – scientist” như thế nào? Khái niệm này mới chỉ xuất hiện năm 1834, khi triết gia William Whewell sử dụng nó như một cách “chụp mũ” toàn bộ những người đang theo đuổi ngành khoa học đang lan rộng như nấm mùa mưa, len lỏi về mọi hướng và không thấy dấu hiệu dừng lại. Hàng ngũ những cá nhân xuất chúng bao gồm những nhà vật lý học, hóa học, tự nhiên học, toán học (ấy là còn chưa kể tới những phân ngành nhỏ hơn), và triết gia Whewell muốn thống nhất cách gọi họ bằng một thuật ngữ mới.
Vậy thì, theo ý nghĩa “người theo đuổi khoa học” mà Whewell muốn truyền tải, thì danh hiệu “nhà khoa học đầu tiên” sẽ thuộc về những người cha của khoa học hiện đại. Hai cái tên xuất chúng đầu tiên xuất hiện là Roger Bacon (1214/1220-1292), triết gia Anh thời trung cổ, người chủ trương ủng hộ việc làm thí nghiệm và có lẽ là người ủng hộ đầu tiên của phương pháp khoa học hiện đại; thứ hai là Francis Bacon (1561-1626, hai người cùng họ Bacon nhưng không có liên hệ huyết thống), là cha đẻ của chủ nghĩa kinh nghiệm, đồng thời là cái tên sáng giá trong Cách mạng Khoa học.
Với nhiều người khác, công trình nghiên cứu chuyển động cũng như các quan sát vũ trụ của Galileo Galilei, cũng như việc ông đứng lên chống lại những khẳng định thiếu tính thực tế của Giáo hội, khiến ông trở thành nguyên mẫu của một nhà khoa học. Galilei tự tay tạo ra kính viễn vọng mạnh nhất thời bấy giờ, đồng thời khẳng định sự tồn tại của thuyết nhật tâm – một trong những khám phá vĩ đại nhất của con người. Chính Albert Einstein từng gọi Galileo Galilei là “cha đẻ của vật lý hiện đại, và quả thực, là của khoa học hiện đại nói chung”.
Lại có những cá nhân cho rằng danh hiệu “nhà khoa học đầu tiên” phải xưa hơn nữa. Hàng trăm năm trước khi những tên tuổi đến từ Châu Âu được người đời biết tới, thế kỷ Sau Công nguyên đầu tiên chứng kiến sự xuất hiện của Ibn al-Haytham (965-1040), nhà nghiên cứu quang học và tầm nhìn lỗi lạc. Là tín đồ Hồi giáo sinh ra tại nơi mà ngày nay là Iraq, ông phát minh ra phòng tối – một căn phòng không đặt nguồn sáng, có một lỗ nhỏ (có thể gắn thấu kính hoặc không) để chiếu hình ảnh từ bên ngoài vào.
Mô tả phòng tối trong cuốn sách Một bản mô tả ngắn về mắt và bản chất của tầm nhìn” do James Ayscough thảo nên.
Như tác giả Bradley Steffens viết trong cuốn sách Ibn al-Haytham: Nhà khoa học đầu tiên: ông “là người đầu tiên thử nghiệm giả thuyết với những thí nghiệm có thể được xác minh là hiệu quả”. Ibn al-Haytham có ảnh hưởng lớn tới cách làm khoa học của Roger Bacon.
Nhưng không một cá nhân nào nói trên gọi mình với những danh xưng tựa “nhà khoa học”. Họ là những triết gia chiêm nghiệm tự nhiên, không phải người tiên phong trong một ngành nghề cơ bản mới, và họ thấy rằng mọi bước đi của mình đều dẫm lên dấu chân của những bậc hiền triết cổ đại.
Sau khi có nhận thức và “biết mình là ai”, chúng ta lại hỏi “mình đang ở đâu”
Mở rộng khái niệm khoa học, sẽ có người coi triết gia vĩ đại Aristotle (384-322 TCN) là nhà khoa học đầu tiên. Ông không phải là người của thực nghiệm, và nhiều khẳng định của Aristotle là hoàn toàn sai. Kể cả người thầy Plato (428/427 hoặc 424/423-348/347 TCN) của ông cũng nhiều khi sai, ví dụ như nhận định cho rằng mắt người bắn ra ánh sáng nên có thể nhìn; thí nghiệm sau này của Ibn al-Haytham đã chứng minh sai lầm của Plato.
Một phần bức tranh Trường Athena, với Plato đứng bên trái và Aristotle đứng bên phải.
Toàn cảnh bức tranh Trường Athena – The School of Athens của danh họa Raphael.
Những trong cuốn Phá nước: Bằng cách nào Aristotle phát minh ra Khoa học, nhà sinh học Armand Marie Leroi cho rằng Aristotle đã mang trong mình cái thuần khiết của chủ nghĩa kinh nghiệm – học thuyết cho rằng kiến thức tới chủ yếu, hoặc chỉ có thể tới từ hoạt động tổng hợp thông tin từ các giác quan, từ việc quan sát, ghi chép các hình mẫu, các hành vi luận ra được sau thử nghiệm. Francis Bacon có thể là cha đẻ của “chủ nghĩa kinh nghiệm” hiện đại, nhưng triết gia Aristotle đã áp dụng phương pháp làm khoa học này từ thuở Hy Lạp Cổ đại.
Vậy mà bản thân Aristotle lại hướng mắt nhìn về những thế hệ tiền nhiệm để đi tìm nhà khoa học đầu tiên của nhân loại. Trong cuốn sách Nhà khoa học Đầu tiên: Anaximander và Di sản của ông, nhà vật lý lý thuyết Carlo Rovelli nhận định khởi đầu của khoa học bắt nguồn từ “cách mạng Anaximander”: ấy là lúc nhà triết gia cổ đại nhận ra rằng Trái Đất không được đặt trên một cây cột vũ trụ hay trên lưng một con rùa khổng lồ; “thiên đường” trải rộng về mọi hướng.
Với nhà vật lý học Rovelli, thành tựu này của Anaximander (610-546 TCN) đâu có kém vĩ đại so với “cách mạng Copernic“, sinh ra từ thuyết nhật tâm 2.000 năm sau thời điểm Anaximander biết vị thế lơ lửng của Trái Đất giữa không gian. “Nếu như việc nhìn nhận lại thế giới là yếu tố trọng tâm của mọi công trình nghiên cứu khoa học, thì khởi đầu của chuyến hành trình này không nằm tại luật chuyển động của Newton, tại thử nghiệm của Galileo hay tại những phản ánh khoa học của Francis Bacon”.
Nhưng hãy cứ đào sâu thêm một thế hệ nữa để tìm ra người truyền cảm hứng – người thầy của Anaximander: đó là Thales vùng Miletus (626/623-548/545 TCN), được nhiều tài liệu ghi lại là một trong Bảy Hiền nhân của Hy Lạp Cổ đại. Aristotle gọi ông là triết gia đầu tiên của Hy Lạp, lịch sử coi Thales là cá nhân đầu tiên trong nền văn minh phương Tây hoạt động trong lĩnh vực triết học khoa học. Ông là người đầu tiên quay lưng lại với thần thoại, giải thích cách thế giới, vũ trụ tồn tại và vận hành bởi các học thuyết và giả thuyết có nguồn gốc tự nhiên. Ấy chính là tiền thân của nghiên cứu khoa học hiện đại.
Thales hứng thú với mọi thứ, từ địa lý, toán học cho tới chính trị, lịch sử. Theo lời Aristotle, Thales là cá nhân đầu tiên nghiên cứu tới những yếu tố cơ bản của vật chất, và sử gia Herodotus ghi chép rằng Thales đã dự đoán đúng hiện tượng nhật thực diễn ra vào năm 585 Trước Công nguyên, dù rằng không ai biết ông làm vậy bằng cách nào. Aristotle có một giai thoại về Thales như thế này:
Triết gia vĩ đại Thales sống trong cảnh nghèo khó, và người dân vùng Miletus coi ông là minh chứng cho thấy sự vô dụng của triết học. Để khai sáng cho người dân, Thales sử dụng “kỹ năng chiêm tinh” của mình để thấy trước rằng vụ mùa ô liu năm tới sẽ rất sai quả. Ông mua lại toàn bộ các xưởng ép ô liu trong vùng và khi mùa thu hoạch tới, ông “xuất xưởng dầu ô liu với bất kỳ tốc độ nào mà mình muốn, rồi thu về một lượng lớn tiền”. Aristotle kết luận: “ông chứng minh cho thế giới thấy các triết gia hoàn toàn có thể làm giàu nếu họ muốn, có điều tham vọng của họ lại thuộc về những phạm trù khác”.
Cũng như Plato, Aristotle hay bất cứ bộ óc lỗi lạc nào khác, Thales không đúng về mọi thứ. Ví dụ, ông cho rằng “Trái” Đất là một cái đĩa nổi trên mặt nước, và động đất xảy ra khi đĩa bị ảnh hưởng bởi con sóng dữ. Nhưng điều quan trọng là đây: ông là điểm sáng chuyển giao ý thức hệ của con người, từ lý giải thực tế bằng những khái niệm siêu nhiên sang những giải thích thuần tự nhiên.
Sau hàng sa số năm người ta cho rằng sóng sinh ra từ Poseidon, Thales là cá nhân đầu tiên sử dụng quan sát thực tiễn và lý lẽ sắc sảo để giải thích cho các hiện tượng tự nhiên, để cho Xuân Quỳnh sau này có cơ sở viết những vần thơ đúng với khoa học. Cách nghiên cứu của Thales không khác gì cách chúng ta tìm hiểu thực tại ngày nay, và mọi nguồn căn của khám phá, của mọi đột phá trong các lĩnh vực hiện đại, chúng ta đều có thể lần dấu ngược về nhà hiền triết vĩ đại Thales của Hy Lạp Cổ đại.
Theo DiscoverMag